ĐTC gặp gỡ các dân tộc bản địa First Nations, Métis và Inuit tại Maskwacis
Ngọc Yến - Vatican News
Khu vực Maskwacis nằm ở trung tâm Alberta, cách thành phố Edmonton khoảng 70 km. Nơi đây, có sự hiện diện của nhóm Bộ lạc Ấn Độ của Tây Canada và bốn Quốc gia của Maskwacis: Ermineskin Cree Nation; Louis Bull Tribe; Montana First Nation và Samson Cree Nation. First Nations là các bên ký kết Hiệp ước 6, một trong 11 Hiệp ước được ký kết bởi các dân tộc bản địa và Canada từ năm 1871 đến năm 1921. Có một thời khu vực rộng lớn này được bao phủ bởi nhiều cây lê rừng thu hút gấu đến ở, do đó còn có tên gọi là Đồi Gấu.
Khi tới nơi, Đức Thánh Cha được cha xứ và một số vị lớn tuổi của các dân tộc bản địa First Nations, Métis và Inuit chào đón tại lối vào của nhà thờ kính Đức Mẹ Bảy Sự Thương Khó, sau đó ngài tiếp tục di chuyển đến nghĩa trang và thinh lặng cầu nguyện trong giây lát. Rồi Đức Thánh Cha đến Bear Park Pow-Wow Grounds và được các lãnh đạo bản địa đến từ khắp nơi đón tiếp.
Các dân tộc bản địa, những người đã sinh sống trên lãnh thổ Canada từ ngàn năm, gồm ba nhóm lớn: First Nations, Métis và Inuit, với nhiều phong tục, truyền thống và ngôn ngữ khác nhau. First Nations đại diện cho cộng đồng bản địa chiếm ưu thế của Canada, hiện diện ở phía nam của quốc gia; Inuit là một phần của một trong các nhóm chính sinh sống ở vùng bắc cực; và Métis nằm ở cực tây của Canada, họ là hậu duệ của sự kết hợp giữa người bản địa và người châu Âu.
Buổi gặp gỡ được bắt đầu bằng diễn văn chào mừng của một vị đại diện các dân tộc bản địa.
Trong bài diễn văn đáp từ, trước hết Đức Thánh Cha nói rằng ngài đã chờ đợi buổi gặp gỡ này trong những tháng qua. Và ngài đến đây để thực hiện một cuộc hành hương thống hối, để nói với người bản địa rằng ngài rất đau buồn, cầu xin Chúa tha thứ, chữa lành và hòa giải, để cho mọi người thấy sự gần gũi của ngài, để cầu nguyện với và cho họ.
Đức Thánh Cha nói: “Tôi nhớ lại những cuộc gặp gỡ của chúng ta ở Roma bốn tháng trước. Lúc đó, tôi đã được tặng hai đôi giày da đanh như một dấu hiệu của sự đau khổ mà trẻ em bản địa phải chịu đựng, đặc biệt là những em thật không may, ở các trường nội trú và không bao giờ trở về nhà nữa. Tôi đã được yêu cầu trả lại những chiếc giày da đanh khi tôi đến Canada, và tôi sẽ làm như vậy khi tôi kết thúc bài nói chuyện này. Tôi muốn suy tư về biểu tượng này, biểu tượng mà trong vài tháng qua đã khiến tôi cảm thấy đau buồn, phẫn nộ và xấu hổ. Ký ức về các trẻ em đó quả thực rất đau đớn; nó thúc giục chúng ta làm việc để đảm bảo rằng mọi trẻ em đều được đối xử bằng tình thương, danh dự và sự tôn trọng. Đồng thời, những chiếc giày da đanh đó cũng nói cho chúng ta biết một con đường phải theo, một hành trình mà chúng ta mong muốn cùng nhau thực hiện. Chúng ta muốn cùng nhau bước đi, cùng nhau cầu nguyện và làm việc, để những đau khổ trong quá khứ có thể dẫn đến một tương lai công bằng, chữa lành và hòa giải. Đây là lý do tại sao chặng đầu tiên của cuộc hành hương giữa anh chị em lại diễn ra ở vùng này, nơi mà từ xa xưa đã chứng kiến sự hiện diện của các dân tộc bản địa. Đây là những vùng đất nói với chúng ta, cho phép chúng ta ghi nhớ”.
Ca ngợi lối sống tôn trọng lãnh thổ của người bản địa, Đức Thánh Cha nói: “Anh chị em đã coi mảnh đất này như một ân ban của Đấng Tạo Hóa để chia sẻ với người khác và yêu thương trong sự hài hòa với mọi thụ tạo, trong mối tương giao sâu sắc với mọi sinh vật. Bằng cách này, anh chị em đã học được cách nuôi dưỡng ý thức về gia đình và cộng đồng, và phát triển mối liên kết bền chặt giữa các thế hệ, tôn trọng người lớn tuổi và quan tâm đến những người bé nhỏ. Một kho tàng các phong tục và lời dạy tốt, tập trung vào sự quan tâm đến người khác và tình yêu sự thật, vào lòng can đảm và sự tôn trọng, vào sự khiêm tốn và lòng trung thực, vào sự khôn ngoan của cuộc sống”.
Nhưng, theo Đức Thánh Cha nếu đây là những bước đầu tiên được thực hiện trong những lãnh thổ này, thì đáng buồn là ký ức đưa mọi người đến những bước tiếp theo. Nơi tất cả đang tụ họp gợi lại trong Đức Thánh Cha cảm giác đau đớn và hối hận sâu sắc mà ngài đã cảm nhận trong những tháng qua. Đức Thánh Cha nhớ lại thảm kịch mà rất nhiều người trong số các gia đình, cộng đồng, với những gì họ đã chia sẻ với ngài về những đau khổ phải chịu đựng trong các trường nội trú. Đây là những chấn thương, theo một cách nào đó, bừng sống lại mỗi khi được gợi lại. Đức Thánh Cha cũng nhận ra rằng cuộc gặp gỡ hôm nay cũng có thể gợi lại những ký ức và nỗi đau, và nhiều người trong số họ có thể thấy không thoải mái ngay cả khi ngài nói. Nhưng cần phải nhớ, bởi vì sự lãng quên dẫn đến sự thờ ơ và như đã nói, "đối lập của tình yêu không phải là hận thù, đó là sự thờ ơ ... đối lập của sự sống không phải là cái chết, mà là sự 'thờ ơ với sự sống hay cái chết. '(E. WIESEL). Nhớ lại những kinh nghiệm đau thương đã diễn ra ở các trường nội trú là điều gây phẫn nộ, đau xót, nhưng rất cần thiết.
Đức Thánh Cha gợi lại cho mọi người nhớ rằng các chính sách đồng hóa và giải phóng, gồm cả hệ thống trường học nội trú, đã tàn phá như thế nào người dân của những vùng lãnh thổ này. Khi những người thực dân châu Âu đến đó lần đầu tiên, có một cơ hội tuyệt vời để phát triển một cuộc gặp gỡ hiệu quả giữa các nền văn hóa, truyền thống và các hình thức tâm linh. Nhưng phần lớn điều đó đã không xảy ra.
Đức Thánh Cha giải thích: “Và một lần nữa những câu chuyện của anh chị em lại xuất hiện trong tâm trí tôi: làm thế nào các chính sách đồng hóa đã kết thúc bằng cách làm cho người bản địa bị gạt ra ngoài lề một cách có hệ thống; làm thế nào, ngay cả qua hệ thống trường nội trú, ngôn ngữ và văn hóa của anh chị em đã bị bôi nhọ và loại bỏ; trẻ em đã bị lạm dụng thể chất và lời nói, tâm lý và tinh thần; Làm thế nào các em bị đưa đi khỏi nhà các em khi các em còn nhỏ và làm thế nào điều này đã đánh dấu không thể xóa nhòa quan hệ giữa cha mẹ ông bà và con cháu”.
Tiếp đến, Đức Thánh Cha cám ơn người bản địa đã cho ngài biết những điều này. Hôm nay ngài ở đây, vì bước đầu tiên của cuộc hành hương thống hối của ngài giữa người bản địa là một lần nữa cầu xin sự tha thứ, để nói với họ rằng ngài rất đau buồn. Ngài nói: “Tôi xin lỗi vì những cách thức mà trong đó, đáng tiếc là nhiều Kitô hữu đã ủng hộ não trạng thực dân hóa của các thế lực áp bức dân bản địa. Đặc biệt tôi cầu xin sự tha thứ đối với những cách thức mà nhiều thành viên của Giáo hội và các cộng đoàn dòng tu đã hợp tác, kể cả qua sự thờ ơ, trong các dự án phá hủy văn hóa và cưỡng bức đồng hóa do các chính phủ thời đó thúc đẩy, mà đỉnh điểm là hệ thống các trường học nội trú”.
Theo Đức Thánh Cha, mặc dù hoạt động bác ái Kitô luôn hiện diện và không ít trường hợp là mẫu gương trong việc phục vụ trẻ em, nhưng hậu quả chung của các chính sách liên quan đến trường học nội trú là rất thảm khốc. Điều mà đức tin Kitô nói với chúng ta rằng đó là một sai lầm nghiêm trọng, không phù hợp với Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô. Thật đau đớn khi biết rằng nền tảng giá trị, ngôn ngữ và văn hóa của lãnh thổ đó, những điều mang lại cho các dân tộc bản địa một bản sắc đích thực, đã bị xói mòn và tiếp tục phải trả giá.
Đức Thánh Cha khẳng định: “Trước sự dữ gây phẫn nộ này, Giáo hội quỳ gối trước Thiên Chúa và cầu xin sự tha thứ cho tội lỗi của con cái mình. Tôi muốn nhắc lại điều đó với sự xấu hổ và rõ ràng. Tôi khiêm tốn cầu xin sự tha thứ cho tội ác của rất nhiều Kitô hữu chống lại người bản địa. Anh chị em thân mến, nhiều người trong anh chị em và những người đại diện anh chị em đã nói rằng xin lỗi không phải là kết thúc của vấn đề. Tôi cũng nhận thức được rằng đó chỉ là bước đầu tiên, điểm khởi đầu. Tôi cũng nhận ra rằng, 'sẽ không bao giờ là đủ nếu chỉ nhìn về quá khứ, cầu xin sự tha thứ và cố gắng sửa chữa những thiệt hại đã gây ra' và 'sẽ không bao giờ là ít, nếu nhìn về tương lai, làm tất cả để mang lại cho cuộc sống một văn hoá có khả năng ngăn chặn những tình huống như vậy không chỉ không xảy ra nữa, nhưng còn là để nó không còn chỗ nữa'. Một phần quan trọng của quá trình này sẽ là tiến hành một cuộc tìm kiếm nghiêm túc về sự thật của những gì đã xảy ra trong quá khứ và hỗ trợ những người sống sót trong các trường nội trú cảm nghiệm việc chữa lành những tổn thương mà họ phải chịu đựng”.
Đức Thánh Cha nói ngài cầu nguyện và hy vọng rằng các Kitô hữu và xã hội dân sự của vùng đất này sẽ phát triển khả năng chào đón và tôn trọng bản sắc và kinh nghiệm của người bản địa. Ngài hy vọng rằng những cách cụ thể sẽ được tìm thấy để làm cho những dân tộc đó được biết đến và được quý trọng hơn, để tất cả có thể học cách bước đi cùng nhau. Về phần Đức Thánh Cha, ngài sẽ tiếp tục khuyến khích sự dấn thân của tất cả những người Công giáo đối với người bản địa. Ngài đã làm điều này nhiều lần và ở nhiều nơi khác nhau, qua các cuộc họp, lời kêu gọi và qua Tông huấn. Đức Thánh Cha biết rằng tất cả những điều này đòi hỏi thời gian và sự kiên nhẫn: đây là những quá trình cần phải đi vào lòng người, và sự hiện diện của ngài ở đây và sự dấn thân của các Giám mục Canada là bằng chứng cho ý muốn tiến hành trên con đường này.
Kết thúc bài diễn văn, Đức Thánh Cha mời gọi mọi người thinh lặng cầu nguyện: “Chúng ta hãy cho phép những khoảnh khắc thinh lặng này giúp chúng ta khắc sâu nỗi đau của mình. Thinh lặng. Và cầu nguyện. Trước sự dữ, chúng ta cầu xin Chúa nhân lành; đối diện với cái chết, chúng ta cầu nguyện với Chúa của sự sống. Chúa Giêsu Kitô của chúng ta đã chọn nấm mộ, dường như là nơi chôn vùi mọi hy vọng và ước mơ, chỉ để lại nước mắt, nỗi đau và sự cam chịu, và biến nó thành nơi tái sinh và phục sinh, khởi đầu lịch sử của cuộc sống mới và sự hòa giải phổ quát. Những nỗ lực của chúng ta không đủ để đạt được sự chữa lành và hòa giải: chúng ta cần ơn Chúa. Chúng ta cần sự khôn ngoan hiền lành và mạnh mẽ của Thánh Thần, tình yêu dịu dàng của Đấng An Ủi. Xin Người thực hiện những mong đợi sâu sắc nhất trong trái tim của chúng ta. Xin Thánh Thần hướng dẫn các bước của chúng ta và giúp chúng ta cùng nhau thăng tiến trên hành trình này”.
Buổi gặp gỡ được tiếp tục với bài hát, kinh Lạy Cha, phép lành của Đức Thánh Cha. Sau đó Đức Thánh Cha gặp gỡ một số người.
Cảm ơn bạn đã đọc bài viết này. Nếu bạn muốn nhận các bản tin qua email, vui lòng đăng ký newsletter bằng cách nhấp vào đây.