ĐTC Phanxicô gặp gỡ các giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ, chủng sinh và giáo lý viên ở Papua New Guinea
Vatican News
Đền thánh Đức Mẹ Phù hộ
Đền thánh Đức Mẹ Phù hộ được xây dựng trong 4 năm, do Dòng Salêdiêng tặng, và được làm phép và thánh hiến vào ngày 24/5/2008 bởi Đức Hồng Y Thomas Stafford Williams, nguyên Tổng Giám Mục Wellington ở New Zealand. Hiện diện tại buổi lễ hôm đó có Thủ tướng Michael Somare và Toàn quyền Paulias Matane. Khi bàn giao công trình cho Đức Hồng Y, đại diện Dòng Salêdiêng nói: “Đây là những biểu tượng tình yêu và lòng sùng kính Đức Mẹ của người dân”. Trong nghi thức thánh hiến bàn thờ có đặt thánh tích của thánh Gioan Bosco và Mary D. Mazzarello.
Khi đến nơi, Đức Thánh Cha được chào đón bởi Đức Hồng Y John Ribat, Tổng Giám Mục Port Moresby, Chủ tịch Hội đồng Giám mục, Giám đốc Đền thánh, và hai em bé trong trang phục truyền thống tiến đến tặng hoa cho ngài. Sau đó, Đức Thánh Cha tiến vào cửa chính hôn Thánh giá và rảy nước thánh do cha giám đốc trao.
Sau bài hát, buổi gặp gỡ được bắt đầu bằng lời chào mừng của Chủ tịch Hội đồng Giám mục, tiếp đến là chứng từ của cha Emmanuel, sơ Lorena, ông James, giáo lý viên, và bà Grace đại diện của Thượng Hội đồng Giám mục về hiệp hành.
Diễn văn của Đức Thánh Cha
Trong diễn văn đáp từ, Đức Thánh Cha cám ơn và bày tỏ niềm vui được gặp mọi người trong Đền thánh giáo phận dâng kính Đức Mẹ Phù hộ các tín hữu, một tước hiệu rất được Thánh Gioan Bosco yêu mến.
Ngài nói: “Năm 1844, khi Đức Mẹ truyền cảm hứng cho thánh Gioan Bosco xây một nhà thờ ở Turino để dâng kính Mẹ, Mẹ đã hứa với thánh nhân: ‘Đây là nhà của ta, đây là vinh quang của ta’. Đức Mẹ đã hứa với thánh Gioan Bosco rằng, nếu ngài có can đảm bắt đầu xây Nhà thờ đó, ân sủng lớn lao sẽ đến. Và đã xảy ra như thế: nhà thờ được xây dựng - thật kỳ diệu - và ngôi thánh đường trở thành trung tâm cho phép Tin Mừng toả sáng, đào tạo người trẻ và thực hiện các hoạt động bác ái, một điểm tham chiếu cho nhiều người. Như thế, Đền thánh tuyệt đẹp, nơi chúng ta đang ở đây, được truyền cảm hứng từ câu chuyện đó, cũng có thể là một biểu tượng cho chúng ta về ba khía cạnh trong hành trình Kitô giáo và truyền giáo của chúng ta, như những chứng từ mà chúng ta vừa nghe đã nhấn mạnh: can đảm để bắt đầu, nét đẹp của sự hiện diện và hy vọng phát triển”.
Can đảm để bắt đầu
Đức Thánh Cha lần lượt quảng diễn từng khía cạnh.
Thứ nhất: can đảm để bắt đầu. Những người xây nhà thờ này đã bắt đầu công trình bằng một hành động đức tin lớn lao, mang lại kết quả. Tuy nhiên điều đó chỉ có thể thực hiện được nhờ nhiều khởi đầu can đảm khác của những người đi trước. Các nhà truyền giáo đến đất nước này vào giữa thế kỷ XIX và những bước đầu tiên trong sứ vụ không dễ dàng, một số nỗ lực thực sự đã thất bại. Nhưng các vị đã không bỏ cuộc; với đức tin lớn lao, lòng nhiệt thành tông đồ và nhiều hy sinh, các nhà thừa sai tiếp tục rao giảng Tin Mừng và phục vụ anh chị em, luôn bắt đầu lại nhiều lần khi không thành công.
Theo Đức Thánh Cha, các cửa sổ kính màu trong Đền thánh nhắc nhở chúng ta về điều này. Ánh sáng mặt trời mỉm cười với chúng ta qua khuôn mặt của các Thánh và các vị Chân Phước: mọi người thuộc mọi hoàn cảnh, gắn liền với lịch sử của cộng đoàn. Tất cả, theo những cách thức và thời đại khác nhau, đã bắt đầu các sáng kiến và tạo ra những con đường, chỉ để bắt đầu lại nhiều lần. Họ đã góp phần mang Tin Mừng đến giữa anh chị em, với một sự phong phú đầy màu sắc của các đặc sủng, được sinh động bởi cùng một Thần Khí và cùng một đức ái của Chúa Kitô. Nhờ “những cuộc khởi hành” và “tái khởi hành” của họ, mà chúng ta có mặt ở đây, mặc dù nhiều thách đố, chúng ta vẫn tiếp tục tiến bước, không lo sợ, biết rằng chúng ta không đơn độc: chính Chúa là Đấng hành động trong chúng ta và với chúng ta, làm cho chúng ta, giống như họ, trở thành khí cụ ân sủng của Người.
Và về vấn đề này, dưới ánh sáng của những gì mọi người đã nghe, Đức Thánh Cha nói ngài muốn gửi đến các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo lý viên một hướng đi quan trọng cho “sự khởi hành” của họ: những vùng ngoại vi của đất nước. Đó là những người thuộc những khu vực nghèo nhất của đô thị, cũng như những người sống ở những khu vực xa xôi và bị bỏ rơi, đôi khi bị thiếu những nhu cầu cơ bản. Những người bị gạt ra bên lề xã hội và bị tổn thương, cả về mặt đạo đức lẫn thể lý, bởi thành kiến và mê tín, đôi khi thậm chí còn nguy hiểm đến tính mạng, như James và sơ Lorena đã nói đến.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Giáo hội mong muốn đặc biệt gần gũi với những anh chị em này, bởi vì trong họ Chúa Giêsu hiện diện một cách đặc biệt (Mt 25, 31-40). Và ở đâu có Người, Đầu của chúng ta, hiện diện, ở đó cũng có chúng ta, là các chi thể Người, vì chúng ta thuộc về cùng một thân thể, ‘được kết cấu chặt chẽ nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng’ (Ep 4,16)”.
Nét đẹp của sự hiện diện
Đức Thánh Cha đi đến khía cạnh thứ hai nét đẹp của sự hiện diện. Ngài nói: “Chúng ta có thể thấy điều này được tượng trưng trong những chiếc vỏ sò kina, trang trí cho nhà thờ này và là dấu hiệu của sự thịnh vượng. Chúng nhắc nhở chúng ta rằng đó là kho báu đẹp nhất trước mắt Chúa Cha. Gần bên Chúa Giêsu và dưới áo choàng Mẹ Maria, chúng ta được hiệp nhất thiêng liêng với tất cả anh chị em mà Chúa đã giao phó cho chúng ta và những người không thể hiện diện ở đây, được thắp sáng bởi ước muốn cho cả thế giới biết đến Tin Mừng và chia sẻ với chúng ta sức mạnh và ánh sáng của Tin Mừng”.
Về câu hỏi của James “Làm thế nào để truyền đạt lòng nhiệt thành truyền giáo cho giới trẻ?”. Ngài trả lời cho rằng việc này không liên quan đến “kỹ thuật” . Tuy nhiên, một cách đã được chứng minh là vun trồng và chia sẻ với họ niềm vui của chúng ta khi được ở trong Giáo hội, ngôi nhà chào đón được làm bằng những viên đá sống động, được chọn và quý giá, được Chúa đặt cạnh nhau và được củng cố bằng tình yêu của Người. Như kinh nghiệm của Grace về Thượng Hội đồng đã nhắc nhở, bằng cách quý trọng, tôn trọng lẫn nhau và phục vụ lẫn nhau, chúng ta có thể cho mọi người chúng ta gặp gỡ thấy rằng thật tuyệt vời khi được cùng nhau theo Chúa Giêsu và loan báo Tin Mừng của Người.
Ở điểm này, Đức Thánh Cha nhấn mạnh, nét đẹp của sự hiện diện không được trải nghiệm nhiều trong các sự kiện lớn và những lúc thành công, nhưng đúng hơn là ở lòng trung thành và tình yêu mà chúng ta cố gắng cùng nhau phát triển mỗi ngày.
Niềm hy vọng phát triển
Tiếp tục giải thích về khía cạnh thứ ba niềm hy vọng phát triển, Đức Thánh Cha nói trong Nhà thờ này có một “giáo lý bằng hình ảnh” thú vị về việc vượt qua Biển Đỏ, với các nhân vật Abraham, Isaac và Môsê: các Tổ phụ đã sinh hoa trái nhờ đức tin, những người đã tin tưởng và đã nhận được hồng ân là con cháu đông đảo. Và đây là một dấu hiệu quan trọng, bởi vì cũng khuyến khích chúng ta ngày nay tin tưởng vào hoa trái của việc tông đồ, tiếp tục gieo những hạt giống tốt lành nhỏ bé trên các luống cày của thế giới. Chúng nhỏ bé, như hạt cải, nhưng nếu chúng ta tin tưởng và không ngừng gieo, nhờ ân sủng Chúa, chúng sẽ nảy mầm, mang lại mùa màng bội thu, và sinh ra những cây chim trời có thể làm tổ. Thánh Phaolô nói điều đó khi ngài nhắc nhở chúng ta rằng sự lớn lên của những gì chúng ta gieo không phải là công việc của chúng ta mà là của Chúa, và Mẹ Giáo Hội dạy điều đó khi nhấn mạnh rằng, ngay cả qua những nỗ lực của chúng ta, chính Thiên Chúa “làm đảm bảo rằng vương quốc Người sẽ đến trên mặt đất”. Vì vậy, chúng ta tiếp tục kiên nhẫn rao giảng Tin Mừng, không nản lòng trước những khó khăn và hiểu lầm, ngay cả khi chúng nảy sinh ở những nơi mà chúng ta không muốn gặp: ví dụ trong gia đình, như chúng ta đã nghe.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha mời gọi tất cả cùng tạ ơn Chúa vì Tin Mừng đã bén rễ và lan rộng ở Papua New Guinea và Quần đảo Solomon, và khích lệ các giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo lý viên tiếp tục sứ vụ như những chứng nhân của lòng can đảm, nét đẹp và hy vọng.
Sau buổi gặp gỡ, Đức Thánh Cha trở về Toà Sứ Thần cách đó 4km để nghỉ đêm, kết thúc ngày thứ hai viếng thăm Papua New Guinea.
Cảm ơn bạn đã đọc bài viết này. Nếu bạn muốn nhận các bản tin qua email, vui lòng đăng ký newsletter bằng cách nhấp vào đây.